Lịch sử bài học Israel: Chương 10-11

Người đăng: nhung dieu hay on Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Cuốn sách Lịch sử bài học Israel do học giả Nguyễn Hiến Lê biên soạn, ông cũng là tác giả, dịch giả của những cuốn sách nổi tiếng khác như: Quẳng gánh lo đi mà vui sống, Đắc nhân tâm, Kinh dịch - đạo của người quân tử,... (nguồn dẫn: internet) 

Lịch sử Bài học Israel Phần III:
Quốc Gia Israël-Chương X TỔ CHỨC QUỐC GIA ISRAËL
Chính thể dân chủ. Trong bản tuyên bố Độc lập ngày 14-5-1968, có câu: “Quốc gia Israel sẽ xây dựng trên cơ sở tự do, công bẳng và hoà bình… Mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng, chủng tộc, nam nữ, đều được hưởng sự bình đẳng hoàn toàn về các quyền lợi xã hội và chính trị. Quốc gia sẽ bảo đảm sự tự do tôn giáo, tín ngưỡng (1), ngôn ngữ, giáo dục, văn hoá… Quốc gia đó sẽ tôn trọng các quy tắc của Hiến chương Liên Hiệp quốc”.
Vậy Israel là một nước dân chủ, tôn trọng mọi quyền căn bản như các nước dân chủ phương Tây.
Giáo dục cưỡng bách tới 16 tuổi và các bảo hiểm xã hội được tổ chức rất đàng hoàng, không kém các nước văn minh trên thế giới. Tôn giáo có cấm ngặt vài điều như sự kết hôn theo pháp luật, nhưng sau này chắc sẽ có sự thay đổi. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội (Kenesseth) do dân bầu; Israel không có thượng viện như Anh, Pháp, Mỹ, Việt Nam. Quyền hành chính về tổng thống do Quốc hội để cử. Thủ tướng do tổng thống đề cử, đứng ra lập nội các và các bộ trưởng đều chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Bầu cử
Công dân trai và gái, Israel cũng như Ả Rập, đủ 18 tuổi thì được bầu cử và đủ 21 tuổi thì được ứng cử vào Quốc hội. Nhưng một số người giữ các địa vị quan trọng bên hành chính, tư pháp, trong quân đội, trong tôn giáo như Viện trưởng viện Giám sát, Giáo trưởng, tham mưu trưởng, không được ứng cử. Các công chức, các sĩ quan, muốn ứng cử phải bỏ chức vụ ít nhất là một trăm ngày trước ngày bầu cử.
Đầu phiếu theo lối phổ thông, trực tiếp, kín và theo tỉ lệ nghĩa là không bầu cho một ứng cử viên mà cho một đảng phái, một chương trình.
Mỗi đảng được đưa ra một danh sách ứng cử viên tối đa là 120 người, tức số dân biểu trong Quốc hội; năm 1959, Israel có độ 2.250.000 người và có khoảng 1.275.000 cử tri; năm 1967, số dân lên giới khoảng 2.700.000 người. Nếu một đảng được 50% tổng số phiếu thì được 60 ghế ở Quốc hội; theo luật thì đảng nào có ít nhất là 1% số phiếu cũng có thể được chia ghế.
Vì một lẽ gì đó - chết hay từ chức - mà thiếu một dân biểu ở Quốc hội thì không cần bầu lại, người kế trong bản danh sách của đảng sẽ đương nhiên được lên thế.
***
Đảng chính trị
Năm 1962, ở Israel có 11 đảng chính trị:
Bảng Mapai, tức đảng công nhân Israel (thành lập năm 1930) chủ trương phục hồi Quốc gia Israel, xây dựng một xã hội theo các quy tắc dân chủ và xã hội, mong được sống hoà bình với các dân tộc Ả Rập, nhưng phải giữ vẹn toàn lãnh thổ: Đảng đó của Ben-Gurion, Moshé Dayan, Golda Meyerso (cũng gọi là Goida Mei), một nữ chiến sĩ hồi Israel mới thành lập làm bộ trưởng ngoại giao. Đảng có uy thế nhất trong nước, lần bầu cử nào cũng dẫn đầu, nhưng cũng chỉ chiếm được non nửa (40-47%) số ghế trong Quốc hội.
Đảng Hérouth thành lập năm 1948, thiên hữu, đối lập với chính phủ (năm 1962), đòi mở rộng lãnh thổ Israel cho tới khi phục hồi được biên giới thời cổ; bênh vực tự do kinh doanh. Đảng này được trên dưới 15 ghế trong Quốc hội.
Đảng Tự do thành lập năm 1961, số ghế lên xuống không đều, từ 21 đến 27 ghế.
Đảng Quốc gia tôn giáo, (chủ trương đúng với tên), số ghế trên dưới 15.
Đảng Mapam (đảng công nhân thống nhất thành lập năm 1947, có khuynh hướng xã hội, thiên tả muốn đoàn kết công nhân Israel và Ai Cập, xây dựng một nền hoà bình lâu dài ở Tây Á, trung lập trên khu vực tôn giáo. Số ghế khá vững (từ 15 tới 19), chưa thấy có cơ khuyếch trương. Trong Quốc hội, đảng đó liên kết với đảng Ả Rập.
Đảng Ả Rập được khoáng 4-5 ghế.
- Đảng Cộng sản (thành lập năm 1948) cũng được 4 - 5 ghế.
Các đảng khác nhỏ hơn, không có đường lối rõ rệt, ảnh hưởng không bao nhiêu.
Quốc hội - Chính phủ
Dân biểu được bầu trong một thời hạn là 4 năm, nhưng Quốc hội muốn tự giải tán để bầu lại lúc nào cũng được.
Quốc hội bầu Tổng thống. Tổng thống được ủy quyền trong năm năm. Tổng thống đầu tiên của Israel là Chaim Weizmann. Năm 1952, Weizmann mất, Quốc hội mời nhà bác học Einstein lúc đó ở Hoa Kỳ lên thay, nhưng Einstein tự xét không hợp với nhiệm vụ đó, đã từ chối vinh dự mà quốc dân muốn tặng ông. Quốc hội bèn bầu Ben-Zvi, ông này được bầu lại năm 1957. Trong chiến tranh 1967, tổng thống của Israël là F. Shazr.
Tổng thống đề cử một người trong Quốc hội để thành lập Nội các, tức thủ tướng. Thủ tướng đầu tiên của Israël là Ben-Gurion. Năm 1962, Nội các Israel gồm 16 bộ.
Quốc hội giữ quyền lập pháp, xem xét ngân sách, có thể tín nhiệm nội các.
Từ trước tới nay chưa có đảng nào chiếm già nửa số ghế trong Quốc hội, nên vài đảng cần liên kết với nhau để ủng hộ nội các và các nội các đều vững.
Tư pháp được độc lập, không bị các đảng phải chi phối, không bị hành pháp thao túng. Các vị thẩm phán, pháp quan không do thủ tướng đề cử, cũng không do quốc dân bầu lập mà do tổng thống đề cử theo ý kiến một Uỷ ban độc lập gồm Chủ tịch Tối cao pháp viện, bộ trưởng bộ tư pháp, một vị khác trong nội các, hai dân biểu trong Quốc hội và hai vị trong Hội đồng Luật sư.
Giám sát viện cũng có tính cách độc lập, do Tổng thống đề cử theo ý kiến của một Uỷ ban trong Quốc hội đại diện của mỗi đảng phái. Giám sát viện giữ quyền trong năm năm và chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quyền hành rất lớn: kiểm soát tất cả những chi tiêu của Chính phủ, sự thanh liêm, đắc lực của các nhãn viên chính phủ và kiểm soát các công ty quốc doanh hoặc có một phần vốn của chính phủ.
* * *
Tiếp thu và định cư các người hồi hương. Một sự kiện có ảnh hưởng rất lớn tới tình hình quốc tế sau một thế chiến vừa rồi là những đợt tản cư hàng triệu, chục triệu người ở phương Đông cũng như phương Tây. Tây Đức đã tiếp nhận mười ba triệu người di cư; ở Đại Hàn có chín triệu, ở Ấn Độ cũng có thoảng chín triệu, ở Phần Lan, ở Áo non nửa triệu, ở nước ta một triệu, ở Israel hơn một triệu. Dưới đây là những con số trích trong cuốn “L’intégration des immigrants”(2) của Arthur Saul Suller.
Năm 1882-1914 số người hồi hương định cư 50.000-70.000-
Năm 1919-1932 số người hồi hương định cư 126.340
Năm 1933-1939 số người hồi hương định cư 235.170
Năm 1940-1943 số người hồi hương định cư 29.504
Năm 1944 số người hồi hương định cư 15.552
Năm 1945 số người hồi hương định cư 15.259
Năm 1946 số người hồi hương định cư 18.760
Năm 1947 số người hồi hương định cư 22.098
Năm 1948 số người hồi hương định cư 118.984
Năm 1949 số người hồi hương định cư 239.076
Năm 1950 số người hồi hương định cư 159.405
Năm 1951 số người hồi hương định cư 173.901
Năm 1952 số người hồi hương định cư 23.275
Năm 1953 số người hồi hương định cư 10.347
Năm 1954 số người hồi hương định cư 17.471
Năm 1955 số người hồi hương định cư 36.303
Năm 1956 số người hồi hương định cư 54.925
Năm 1957 số người hồi hương định cư 71.100
Năm 1958 số người hồi hương định cư 26.093
Năm 1959 số người hồi hương định cư 23.045
Năm 1960 số người hồi hương định cư 23.643
Năm 1961 số người hồi hương định cư 46.650
Năm 1962 số người hồi hương định cư 59.600
Năm 1963 số người hồi hương định cư 62.156
Năm 1964 số người hồi hương định cư 52.456
Năm 1954, dân số miền Nam Việt Nam vào khoảng 9-10 triệu, tiếp thu một triệu đồng bào di cư, mà đã lúng túng. Dân Do Thái năm 1948-1949 chỉ có khoảng 700.000, đương còn phải chiến đấu với Ả Rập, mà phải tiếp thu khoảng 340.000 đồng bào (bằng nửa dân số); hai năm sau lại tiếp thu thêm 300.000 nữa, như vậy là trong có 4 năm dân số tăng lên gấp đôi, từ 700.000 lên tới 1.500.000; ta thử tưởng tượng nhà cầm quyền hồi đó đã phải gặp bao nhiêu nỗi khó khăn. Tới 1946, tổng số người Do Thái hồi hương là trên một triệu.
Một khó khăn rất lớn là những người Do Thái hồi hương thuộc đủ các quốc gia, ông David Catarivas trong cuốn “Israel” (sách đã dẫn) đã làm một bảng liệt kê: chỉ trừ có Zanzibar, còn nước nào trên thế giới cũng có Do Thái hồi hương về Israel. Họ thuộc đủ các nền văn minh, nói đủ các ngôn ngữ có đủ tập quán, phong tục, vậy mà cùng tụ họp nhau ở Israel, làm sao hiểu nhau, tránh hết mọi xích mích; chính quyền làm sao kiếm công ăn việc làm cho họ, hướng dẫn, giáo dục họ để mau thành một dân tộc thống nhất có một ngôn ngữ chung.
Tôi chỉ xin kể một thí dụ. Từ ba ngàn năm nay, dân Do Thái ở Yemen, sống nhờ Ả Rập, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, vẫn giữ đúng phong tục tổ tiên, vẫn học tiếng Hébreu, không biết máy in là cái gì, phải chép tay Thánh kinh để dạy lẫn nhau. Khi nhà cầm quyền Yemen ra lệnh bắt trẻ Do Thái mồ côi để bắt chúng cải giáo, bỏ đạo Do Thái mà theo đạo Hồi, thì người Do Thái nào biết mình sắp chết, cũng lập tức cho gả cưới con, dù chúng chỉ mới vài ba tháng, để chúng thành gia thất, thành “người”, không phải là trẻ mồ côi, mà khỏi bị nhà cầm quyền Ả Rập bắt.
Họ lạc hậu đến nỗi thấy xe hơi là hoảng hốt tưởng nó là quái vật bị ma quỉ điều khiển; thấy nữ y tá chích thuốc là thét, khóc lóc. Vậy mà nhà cầm quyền Israel cũng phải tìm cách chích thuốc ngừa bệnh cho họ trước khi đưa họ lên máy bay về Israel. Người ta phải moi trong Thánh kinh một câu hay vài chữ nào, xuyên tạc ý nghĩa đi rồi giảng cho họ rằng trong thánh kinh đã có dạy phải chích thuốc, họ mới chịu đi cho chích: Họ không tin y sĩ, không tin khoa lọc, chỉ tin Thánh Kinh. Thánh kinh có cho phép làm thì mới được làm, những con người như vậy mà sống chung với những kỹ sư, luật sư Anh, Pháp, Đức…, thì gây ra biết bao vấn đề.
Máy bay đã sẵn sàng cất cánh, mới họ lên, họ khăng khăng từ chối, bảo “Chúa dạy ngày Sabbat không được làm một việc gì cả: tại sao máy bay dám bay?”. Thế là máy bay phải đợi họ. Có một phụ nữ đẻ trên phi cơ đương bay. Họ nhốn nháo cả lên, đốt lửa sưởi ấm nữa mới khổ cho chứ.
Xuống sân bay ở Israel, mỗi người trong bọn họ chỉ có một bọc quần áo và một ve nước; phải đưa họ tới những chỗ tạm cư, tập cho họ làm quen với lối sống hiện đại.
Vụ hồi hương bắng phi cơ đó, người Israd gọi là công tác “Bức thảm bay” (Tapis magique) ở thế kỷ XX, và những người hồi hương cho hành trinh đó là “cuộc hành trình cuối cùng của kiếp lang thang”.
Một người trong bọn họ ghi lại cảm tưởng như sau: “Chúng tôi đương sống trong cảnh đày ải và đợi ngày được Cứu tội mà không biết bao giờ nó đến. Một người trong bọn tôi đi tới kinh đô rồi về báo cho chúng tôi: “Có một quốc gia ở Israel. Chúng tôi không biết tin đó có đúng không. Ngày tháng trôi qua, không có tin tức, dấu hiệu gì nữa. Rồi tin đồn lại tăng lên. Nhiều người từ xa về bảo chúng tôi: “Ở Israel có một ông vua”. Sau đó họ lại tới bảo: Có một đạo quân ở Israel, một đạo quân anh dũng. Sau cùng họ tới và bảo: Có chiến tranh ở Israel, những đau khổ đó bảo rằng Chúa Cứu thế sắp ra đời”. Chúng tôi vẫn ở trong cảnh đày ải, không biết rằng những tin đó có đúng không. Chúng tôi vẫn mong được cứu tội và nóng ruột làm sao (…) Thế rồi một hôm, một mật thư của sứ giả tới: “Đứng dậy, anh em ơi! đứng dậy, giờ đã điểm. Non sông chúng ta đợi các con cái về xây dựng lại những cảnh đổ nát, trồng trọt lại những chỗ bỏ hoang mà cứu rỗi cho non sông và cho chúng ta”.
“Chúng tôi bán hết nhà cửa, đồ đạc… Chúng tôi đem theo những cuốn Thánh pháp và các đồ vật thiêng liêng. Và chúng tỏi sửa soạn thức ăn thức uống để lên đường. Và từ khắp nơi ở Yemen từng bọn người đó tới, nóng lòng muốn thấy đất Israel… Tới nơi người ta gom chúng tôi vào một trại lớn gần châu thành… Chúng tôi nằm la liệt trên cát, từng gia đình một, nóc nhà là vòm trời, bão cát hất tung lên, và chúng tôi cầu nguyện cho cuộc “aliya” (Aliya có nghĩa là lên. Người Do Thái không nói “về” Israel mà nói “lên” Israel như ta nói thượng kinh (lên kinh đô) vì cho Israel là đất cao quí hơn cả các nơi khác. Đi xứ khác, họ bảo là “xuống”) của chúng tôi: “Ước gì cánh chim đại bàng đưa chúng tôi về xứ! Và chúng tôi được bay bổng lên trên không”.
Con chim đại bàng đó là phi cơ của hãng Near East Air Transport. Và những con người chất phác chưa bao giờ thấy chiếc xe đạp đó, vui vẻ, tin tưởng bước lên phi cơ, vì trong Thánh kinh đã có câu: “Trên cánh con chim đại bàng, Ta đã đưa các con về với Ta”.
Từ 1948 đến 1960 người Do Thái ở khắp nơi về Israel thành năm đợt.
Đợt đầu từ khi tuyên bố Độc lập cho tới đầu năm 1950, đương chiến tranh mà họ ùn ùn đổ về (341.000 người), phần lớn là những người thoát khỏi cảnh diệt chúng ở châu Âu, rồi tới Do Thái Thổ Nhĩ Kỳ, Yemen, cả Trung Hoa nữa (5.000).
Một phần lớn chiếm những nhà Ả Rập bỏ trống (Ả Rập vì chiến tranh mà phải tản cư), một phần ở tạm trong lều hoặc các căn nhà tiền chế. Một số xung phong ra mặt trận hoặc giúp đỡ trong quân đội, còn thì làm lung ở hậu phương.
Sau khi đình chiến, tình trạng thất nghiệp hoá ra nan giải: chính quyền phải kiếm công việc cho họ làm: sửa chữa nhà cửa, đường sá, xây cất, khẩn hoang…
Đợt thứ nhì, năm 1951-1952 cũng vẫn đông. Người ta phải cấp tốc xây dựng những “làng nấm” (nhà thấp nhỏ, giống nhau, ở trên nhìn xuống như một đám nấm) ở ngoại ô các châu thành và tại những nơi đương phát triển. Họ bắt đầu tự tổ chức đời sống, nhờ sự giúp đỡ của chính quyền.
Đợt thứ ba, số hồi hương giảm xuống, mỗi tháng chỉ còn khoảng 1.200 người (năm 1949, có hồi mỗi ngày phải tiếp thu hàng ngàn người), chính quyền gởi cán bộ lại dạy dỗ họ: dạy tiếng Hébreu, dạy nghề, nhất là nghề nông. Tới giữa năm 1954, tình trạng đã ổn định.
Đợt thứ tư, từ 1954, vì những biến cố xảy ra ở Bắc Phi, số hồi hương lại tăng lên. Chính phủ không đủ tiền, phải hạn chế: cho vô trước những người nào mà đời sống lâm nguy (như bị các nước khác trục xuất, nghi kị), rồi những gia đình nào có một người có nghề đủ sống; còn những người đau ốm tàn tật mà không có thân nhản cấp dưỡng nổi thì không được tiếp nhận. Người ta đưa ngay những người mới vô tới một nơi họ có công việc làm liền.
Đợt thứ năm, từ 1956 gồm những Do Thái ở Ai Cập (vì có chiến tranh Israel - Ai Cập) và Hungary (sau cuộc nổi loạn ở Hungary tháng 10-1956). Người ta gom những người cùng một xứ, cùng một nền văn hoá, để tránh mọi sự xích mích.
Những cuộc hồi hương đó gây rất nhiều khó khăn cho chính quyền nhưng cũng rất có lợi cho Israel, vì người bao giờ cũng tạo ra của cải, một số người Do Thái ở phương Tây còn đem của cải về xứ sở nữa.
Một triệu hai trăm ngàn người hồi hương đã đem sức ra xây dựng Israel trong các xưởng máy, các trại ruộng (điều đáng chú ý là họ không ưa vô các Kibboutz), các trường học, và trong năm 1967 nhờ họ một phần lớn mà Israel đã chiến thắng được khối Ả Rập. Nếu lúc đó Israel không có được trên hai triệu người thì làm sao có thể động viên được 300.000 người để đưa ra ba mặt trận.
Số người Do Thái ở Israel hiện nay vào khoảng hai triệu bảy mà trong số Do Thái trên thế giới vào khoảng hai chục triệu (3) non mười triệu ở Hoa Kỳ và Canada, phần lớn đại phú, giúp đỡ cho đồng bào của họ ở Israel được rất nhiều, về phương diện tài chính cũng như về phương diện ngoại giao vì họ có địa vị cao trong các nước đó; ba triệu Do Thái ở Nga vì tình hình chính trị, cách biệt hẳn với Do Thái ở Israel (hình như chính quyền Nga không cho họ về Israel); ở Pháp và Anh có hết thảy độ một triệu Do Thái, Còn thì rải rác ở khắp các nước trên thế giới.
Đa số những người Do Thái còn ở ngoại quốc đó không muốn về Israel (trừ khi nào có một biến cố lớn như cuộc diệt chủng ở Đức trong thế chiến vừa rồi (điều này chắc không xảy ra được nữa): và như vậy cũng hay cho Israel, vì nếu họ đòi về cả thì không đất đâu để chứa cho hết.
Người Ả Rập hồi hương. Ngoài trên một triệu người Do Thái hồi hương còn phải kể một số người Ả Rập hồi hương nữa. Tổng số họ với những người Ả Rập không tản cư trong chiến tranh 1948-1949 lên giới 180.000. Theo Hiến pháp, họ được coi như bình đẳng về mọi phtrơng diện với người Do Thái, không bị kỳ thị về chủng tộc, tôn giáo, nhưng tình cảnh của họ cũng rắc rối và thật khó xử.
Họ là công dân Israel, nhưng cố nhiên, làm sao quên được những đồng bào của họ ở bên kia biên giới, ở Jordanie, Gaza, Syrie, Liban. Có nhiều gia đình một nửa ở Israel, một nửa phiêu bạt ở các quốc gia Ả Rập. Họ phải nhìn những đất đai nhà cửa của đồng bào họ, bà con họ, vì tị nạn bỏ lại mà bị Do Thái chiếm cứ, khai khẩn, nhìn những giáo đường của họ bị tàn phá hoặc bỏ hoang thì lòng nào mà không chua xót? Một số giới Do Thái biết điều, nhân từ, che chở thương hại họ, càng làm cho họ thêm tủi. Mà số đó rất ít, đa số đều nghi kị, khinh bỉ họ. Cho nên luôn luôn họ có mặc cảm tự ti. Họ áp dụng phương pháp làm việc của các người Do Thái, mức sống của họ cao hơn đồng bào họ ở các xứ láng giềng; họ được tổ chức hợp tác xã nghiệp đoàn, được bầu cử, thành lập đảng phái, có ghế trong Quốc hội, và trong Quốc hội, đảng Cộng sản thường bênh vực họ, nhưng họ không được nhập ngũ, và trong những thời chiến tranh giữa Israel và Ả Rập, họ càng thấy bứt rứt, tủi nhục, bị nghi kị làm gián điệp, phản quốc gia đương nuôi họ. Mà nếu không phải là phản Israel thì cũng là phản Islam. Lại thêm cái nỗi ở Israel, luật pháp bắt hôn lễ phải làm ở nhà thờ, vậy là cấm Do Thái kết hôn với Ả Rập là kỳ thị chủng tộc chứ còn gì nữa? Sự sung sướng về vật chất của họ càng làm cho lòng họ thêm bị dằn vặt.


Lịch sử Bài học Israel
Chương X (B) GIÁO DỤC VÀ TÔN GIÁO
Giáo dục. Một vấn đề nữa làm cho Israël phải gắng sức nhiều là vấn đề giáo dục. Một xứ trên một triệu người (năm 1952) mà có 70 giống người từ những giống người rất tân tiến như Do Thái Pháp, Đức Mỹ, Anh, tới những giống người rất có lỗ như Do Thái Yemen, Kénia, Lettonie, Erythée… mà sống chung với nhau thì vấn đề giáo dục rất phức tạp. Phải thống nhất ngôn ngữ, tư tưởng, lối sống thì mới mau thành một dân tộc được. Công việc đó là của Bộ Giáo dục quốc gia và Bộ mới xúc tiến từ năm 1953.
Việc đầu tiên của Bộ là bắt mọi người phải học tiếng Hébreu, soạn những sách dạy từ 500 tới 1000 tiếng căn bản để dân chúng học trong vài ba tháng có thể tàm tạm nói được. Tôi không biết tiếng Hébreu ra sao, chỉ biết nó có 2 mẫu tự, hết thảy đều là những phụ âm, không có nguyên âm.
Nó lại là một tử ngữ, có từ khoảng 1.300 năm trước Tây lịch, vậy chắc chắn nó không dễ học như tiếng Việt đối với chúng ta. Người nào mới hồi hương mà không biết tiếng đó thì cũng phải học ngay. Tất cả trẻ em đều phải học, mặc dầu cha mẹ chúng nói tiếng Anh, tiếng Đức. Đồng thời bộ lại phải dịch những danh từ mới về mọi ngành ra tiếng Hébreu để soạn sách giáo khoa từ tiểu học tới đại học. Người ta phải tìm trong Thánh kinh những tiếng cổ để dịch những ý niệm mới và trong sách Ezéchiel (một trong bốn nhà đại tiên tri của Do Thái) chương I, tiết 27, người ta đã thấy được chữ “điện” (électricité). Chỉ trong năm sáu năm họ hoàn thành công việc và tất cả những môn như điện tử, nguyên tử, hoá học, động cơ, đều được giảng bằng tiếng Hébreu.
Họ đã làm hồi sinh một tử ngữ. So sánh với họ, mình thực đáng tủi sau hai chục năm độc lập, vấn đề chuyển ngữ ở đại học của mình vẫn còn phải đem ra bàn.
Quân đội Israel đã giúp công vào việc truyền bá tiếng Hébreu. Thanh niên nào nhập ngũ cũng phải học hết, cả trai lẫn gái. Ngoài giờ luyện tập quân sự, họ chuyên cần học tiếng Hébreu. Có thể nói rằng tiếng Hébreu đã thống nhất dân tộc Israel.
Năm 1948, khi mới thoát ách của Anh, cả Palestine chỉ có 100.000 học sinh; mười năm sau số đó tăng lên nửa triệu, tới năm 1964 được 650.000, nghĩa là trên một phần tư dân số toàn cõi; tỉ số đó không kém tỉ số của Pháp. Vậy là về giáo dục, trong mười năm họ đã gần theo kịp các nước tân tiến nhất.
Mới đầu thiếu lớp học, thiếu thày, một số trẻ em phải ngồi trên đất, trong lều, ngày nay tình trạng đã thay đổi hẳn.
Tiểu học. Từ năm 1949, có luật cưỡng bách giáo dực. Trẻ em từ 5 tới 14 tuổi đều phải đi học: một năm ở vườn trẻ, và 8 năm ở trường tiểu học.
Niên học 1963-64, có 85.000 trẻ vô các vườn trẻ. Một điều đáng để ý là các vườn trẻ đó còn gián tiếp dạy dỗ cha mẹ của chúng nữa. Những trẻ em Yemen chẳng hạn vô các vườn đó học được tục lệ mới, lối sống mới, cha mẹ chúng là những người cổ lỗ nhờ vậy cũng biết tục lệ, lối sống đó.
Cũng niên học 1963-64 có trên 450.000 học sinh tiểu học. Chúng học tám năm - chứ không phải năm năm như ta - ngoài những môn thường như toán, sử, địa, còn có môn canh nông và các nghề chân tay: Từ năm thứ sáu chúng học, thêm một sinh ngữ: Anh, Pháp hoặc Ả Rập. Vậy học sinh học ở tiểu học ra cũng như học sinh lớp đệ ngũ của ta ( Tức lớp 7 ngày nay (1973).
Có ba hạng trường: trường công, trường của các giáo hội, trường tư được thừa nhận mục đích của giáo dục Israel là tạo “một xã hội xây dựng trên tự do, bình đẳng, khoan dung, tương trợ và nhân ái”.
Trung học. Không bắt buộc và học phải trả tiền. Học phí khá nặng. Có ba ngành: phổ thông, y thuật và canh nông; học sinh từ 14 tới 18 tuổi.
Có một số trường trung học dạy 6 năm từ hồi 12 tuổi.
Hết ban trung học, thi bằng cấp tú tài. Đậu thi được ghi tên vô đại học.
Trong số trên 100.000 học binh trung học năm 1965, hai phần ba theo ngành phổ thông, còn một phần ba theo ngành kỹ thuật (có khoảng 100 trường (dạy trong 2, 3 hay 4 năm) và ngành canh nông (có khoảng 40 trường (dạy trong 3 hay 4 năm).
Ngoài ra còn những trường sư phạm, trường y tá hướng dạy nghề cho người lớn, v…v… Đại học: Hai đại học lớn nhất của Israel là Đại học Jérusalem và Viện công nghệ ở Haifa. Trường Đại học Jérusalem có đủ các phân khoa như của ta, thêm hai phân khoa: Trường Quản thủ thư viện và Viện Á - Phi. Niên học 1962- 63, trường có 8.000 sinh viên ghi tên, và 600 sinh viên có bằng cấp, chuyên về việc nghiên cứu.
Viện Công nghệ Haifa đào tạo các kỹ sư mọi ngành, chú trọng nhất tới canh nông và các kỹ nghệ trong nước. Niên học 1966 có khoảng 3.000 sinh viên và 725 chuyên về công cuộc nghiên cứu.
Vậy họ rất chú trọng đến việc nghiên cứu và tiến bộ hơn ta nhiều về phương diện đó. Ngoài ra còn một viện chuyên nghiên cứu nữa là Viện khoa học Weizmann ở Rehovoth. Weizmann là một nhà hoá học Do Thái và là vị tổng thống đầu tiên của Israel, mất năm 1952, đã có công chế ra chất acetone nhân tạo, giúp rất nhiều cho quân đội Đồng minh trong thế chiến thứ nhất. Viện có những ngành Vật lý hạch tâm, điện tử, Hoá học hữu cơ, Vật lý thực nghiệm, Vi trùng học… Những tài liệu ở trên rút trong cuốn Enseignement. Nhưng thêm Joseph Klatzmann trong Les enscignements de l’expérience israelienne (PUF) cũng xuất bản năm 1963 thì Israel còn có một trường đại học ở Tel Aviv và nhiều trường đại học tư, và tổng số sinh viên Israel niên học 1961-62 được 11.000. Tỉ số đó hơi kém tỉ số ở Pháp: Israel 11.000 trên 2.500.000; Pháp 220.000 trên 45.000.000 theo tỉ số Israel thì số sinh viên của ta hiện nay phải được 66.000.
Ngoài ra, Israel cũng có những trường mỹ thuật, truyền kinh. Họ rất chú trọng đến môn khảo cổ vì Israel và cả miền Tây Á có rất nhiều di tích lịch sử. Nhờ đọc kỹ Thánh kinh họ tìm được những mỏ đồng mà cổ nhân đã khai thác, hiểu được công trình dẫn thuỷ nhập điền trên 2.000 năm trước. Công việc xuất bản rất phát triển; những sách có giả trị của ngoại quốc đều được dịch ra tiếng Hébreu để nâng cao trinh độ văn hoá của quốc dân và để mài giũa tiếng Hébreu thành một dụng cụ thích hợp với thời đại.
Trong nước có rất nhiều tổ chức thanh niên của các đảng chính trị. Chín chục phần trăm thanh niên gia nhập các tổ chức đó, hoạt động mạnh mẽ trong các công tác xã hội, nhất là trong khi quốc gia hữu sự. Họ tổ chức các cuộc du lịch để học hỏi, nghiên cứu hoặc giúp đỡ đồng bào, chứ không phải chỉ để ngao du. Khắp nước có những quán thanh niên để họ nghỉ đêm.
Xét chung, thanh niên hiện nay không có nhiều lý tưởng bằng đàn anh lớp trước. Họ cho tinh thần Do Thái là cổ lỗ. Họ gần như các thanh niên Âu Mỹ, lo học nghề trước hết. Nếu không lâu lâu có một cuộc xung đột Israel - Ả Rập như năm 1956, 1967 thì có thể tinh thần Sion mất dần mà Israel sẽ như một quốc gia Tây phương, coi sự nâng cao năng suất, lợi tức, mức sống là mục tiêu quan trọng hơn cả.
Dĩ nhiên Israel cũng có một số thanh niên “cao bồi” như các nước khác, cũng có nhiều thiếu niên phạm pháp, và người ta nhận thấy rằng đa số bọn đó không ở trong một tổ chức thanh niên nào cả.
Một điểm đáng để ý là Israel săn sóc sự giáo dục của thanh niên Ả Rập cũng y như thanh niên của họ. Họ hiểu rằng cách ấy là cách hiệu quả hơn hết để giảm bớt sự cách biệt, xung đột giữa hai dân tộc.
Số kiều dân Ả Rập vào khoảng 180.000 có được 116 trường tiểu học do 900 giáo viên dạy và sáu trường trung học gồm 50 giáo sư. Năm 1964, có hết thảy 45.000 học sinh Ả Rập, tỉ số ngang với tỉ số học sinh Do Thái. Học sinh Ả Rập được học ngôn ngữ của họ.
***
Tuy phát triển mạnh, nền giáo dục Israel còn nhiều khuyết điểm.Chính quyền Israel dư hiểu rằng giáo dục là một yếu tố của sự phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển thì càng cần nhiều kỹ thuật gia, nhiều cán bộ. Hơn nữa, chính họ cũng nhận thấy rằng trong trận 1967, quân đội Israel đã thắng lọi một phần vì sĩ tốt có trình dộ văn hoá cao hơn Ả Rập, hiểu mau hon, có sáng kiến hơn.
Nhưng quốc gia mới thành lập, họ phải giải quyết nhiều về vấn đề cấp bách quá, nên việc “đầu tư” vào giáo dục còn chưa đủ.
Tiểu học tuy miễn phí, nhưng đối với nhiều gia đình Do Thái Á châu, Phi châu mới hồi hương, khoản sách vở giấy bút, quần áo cho trẻ vẫn còn là một gánh nặng… (ở nước ta cũng vậy, mà còn thêm nạn thiếu trường, thiếu thày nữa).
Phương pháp dạy dỗ vẫn là phương pháp các trường tiểu học châu Âu, có lẽ không hợp với các trẻ em Yemen chẳng hạn.
Khuyết điểm quan trọng hơn nữa: trung học chưa miễn phí, mà học phí khá cao, thành thử nhiều trẻ thông minh, có khiếu riêng phải bỏ học, do đó quốc gia mất một số lớn nhân tài, các người Do Thái gốc Á châu, Phi (4) vẫn bị thiệt thòi. Năm 1960 các trường đại học Israel phát ra 2.000 bằng cấp mà chỉ có 35 bằng cấp (dưới 2%) về tay các sinh viên gốc Á, Phi. Đó cũng là một cản trở cho công việc thống nhất dân tộc, nhất là cho sự phát triển kinh tế.
Chính quyền đã tìm cách bù sự thiệt thòi của hạng người gốc Á, Phi, cho các học sinh Á, Phi được hưởng thêm một số điểm trong các kỳ thi vô trung học. Nhưng nếu chúng không theo nổi chương trình thì có hại hơn là có lợi. Không phải tại chúng kém thông minh, gia đình chúng sống một lối khác, dạy chúng theo một lối khác lối phương Tây nên chúng theo chương trình phương Tây một cách khó khăn. Có lẽ phải tổ chức lại nền giáo dục từ tiểu học để cho chúng học có kết quả như các trẻ khác, nếu thông minh bằng nhau.
Một nền giáo dục quá tự do, không có kế hoạch hợp với nhu cầu của quốc gia cũng có hại: có nghề dư người như Y khoa: một y sĩ cho 400 người dân, tỉ số cao nhất thế giới, có nghề lại thiếu người; do đó sự phát triển kinh tế, xã hội không được đều.
Nhưng ta phải khen Israel đã biết chú trọng đến ngành canh nông, đào tạo được rất nhiều cán bộ, nên ngành đó của họ tiến vượt bực, chỉ trong hai chực năm đã hơn cả Pháp
***
Tôn giáo. Một khó khăn nữa - không biết có nên gọi là khuyết điểm không - là ảnh hưởng quá lớn của tôn giáo. Không ai chối rằng tinh thần tôn giáo đã giúp dân tộc Do Thái giữ được tinh thần chủng tộc, tinh thần quốc gia; bị lưu lạc khắp thế giới non hai chục thế kỷ mà họ vẫn hướng về “Đất hứa”, vẫn chúc nhau “Sang năm về Jérusalem!”. Nhưng cái gì có mặt phải thì cũng có mặt trái.
Hiện nay ở Israel có một số lớn người Do Thái gốc châu Âu, châu Mỹ không theo đạo, không tin Chúa. Ngay một số người tiên khu ở cuối thế kỷ trước, cũng không về Palestine vì tinh thần tôn giáo, mà vì muốn tránh những cuộc đàn áp, tàn sát ở Châu Âu, muốn lập một quốc gia thôi. Trái lại, những người Do Thái ở Yemen có tinh thần tôn giáo rất cao, tới quá khích. Họ nghĩ rằng Israel được thành lập là do ý Chúa, Chúa cho họ “cưỡi cánh chim đại bàng” mà về Israel vậy thì nhất thiết cái gì cũng phải theo đúng lời Chúa trong thánh kinh. Chính quyền Israel tuy tuyên bố tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng Do Thái giáo vẫn là quốc giáo, và luật pháp vẫn không dám trái ngược với những điều dạy trong Thánh kinh; ngày thứ bảy, ngày Sabbat, vẫn là ngày thiêng liêng, mọi công việc phải ngừng.
Vậy thì sự tự do tín ngưỡng được tôn trọng tới mức nào? Nếu chỉ xét bề ngoài thì có vẻ như tôn giáo không có thế lực gì ghê gớm lắm. Chợ không bán thịt heo, cũng chẳng sao, ăn thịt bò càng ngon, càng bổ. Xe chuyên chở công cộng không chạy ngày thứ bảy; điểm này hơi bất tiện đấy, đành rằng có xe nhà thì cứ dùng không ai cấm; nhưng có phải ai cũng có xe nhà đâu. Và dùng xe nhà thì cũng phải tránh đừng đi ngang các giáo đường lớn (ở Jérusalem, người ta cấm ngặt nhất, ở Tel Aviv, Haifa, được thong thả hơn). Rồi thêm cái nỗi các người tu hành quá khích nhìn mình chằm chằm như muốn ăn gan mình, đôi khi liệng đá vào xe mình nữa: “Chúa cho chúng về đất của chúa, mà chúng nó lại không theo lệnh Chúa à?”. Nănm 1961 xảy ra một vụ không ai tưởng tượng nổi: Có kẻ quá khích bắt cóc một em bé, đưa nó tới một nước khác, ra khỏi Israel “để nó được sống cái đời Do Thái”.
Bọn người quá khích đó tái lập lại những tục có từ hồi hai ba ngàn năm trước mà mọi người đã quên rồi, chỉ còn ghi trong sách cổ, họ ra bờ biển ném tội lỗi xuống biển; họ lại tạo thêm những tục mới, hành hương ở tất cả những nơi có di tích cũ, cả những nơi mới mẻ nữa, như hành hương tại Elath, để nhớ lại hồi xưa, tổ tiên họ được Chúa dắt qua Hồng Hải. Tai hại nhất là luật cấm các cuộc hôn nhân theo pháp luật. Nhiều người không muốn theo đạo cũng phải miễn cưỡng theo đạo để làm lễ cưới. Người nào không muốn theo đạo mà vẫn muốn lập gia đình đành phải sống một cách không hợp pháp, không có hôn thú, và trên khai sinh, con họ thành “con hoang”, có mẹ mà không có cha.
Đôi khi người ta còn cấm một số Do Thái Ấn Độ kết hôn với Do Thái khác nữa, không hiểu tại sao, và theo pháp luật, họ đều là Do Thái, là công dân Israel.
Chỉ có cách là bỏ cái luật tai ác đó đi, nhưng bây giờ nhà cầm quyền chưa dám đụng tới nó. Rồi dần dần cũng nên cho người ta có phương tiện xê dịch, chuyên chở trong ngày sabbat, cho người ta nuôi heo ở một chỗ khuất mắt một chút, vân vân. Tinh thần tôn giáo quá khích đó cố nhiên gây nhiều xung đột với Ả Rập như một chương trên chúng tôi đã nói. Không thế nào vui vẻ sống chung với nhau được nếu bên này không chịu quên vài đoạn trong Cựu ước, bên kia vài câu trong Coran.
Nếu một hai thế hệ nữa mà được như vậy thì cũng đáng mừng lắm rồi.
Quân đội
Từ thời trượng cổ, dân tộc Do Thái vì hoàn cảnh mà có tinh thần chiến đấu rất cao. Israel ở trên con đường giao thông giữa ba châu Âu, Á, Phi, và dân tộc Do Thái phải chiến đấu với các dân tộc xâm lăng từ mọi phía tới. Hiện nay họ ở cái thế ba mặt là Ả Rập, một mặt là biển, nếu muốn sinh tồn cần phải có một đạo quân mạnh mẽ, kỷ luật nghiêm khắc, lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu.
Như ở phần II đã nói, khi người Do Thái bị đàn áp ở châu Âu, nghe lời hô hào của Herzl, về Palestine mua đất làm ruộng, lập những làng xóm, nông trại nho nhỏ, họ đã phải tổ chức sự tự vệ, chống bọn cướp Ả Rập. Những tổ chức đó sau thành đội Tự vệ Hagana.
Trong những năm 1920, 1921, 1929, Hagana đã bí mật chế tạo được một số khí giới, chở lén khí giới ở ngoại quốc vô và đẩy lui được nhiều cuộc tấn công của các đoàn thể Ả Rập. Sau đó mỗi ngày nó một bành trướng: trong thế chiến thứ nhì, nghe lời khuyên của Ben-Gurion, có ba vạn quân tự vệ đàn ông và đàn bà tình nguyện nhập ngũ trong quân đội Anh, nhờ vậy rút thêm được nhiều kinh nghiệm.
Ngoài tổ chức Hagana, còn những đội quân Palmakh, Irgoun có tính cách độc lập, không chịu thuộc quyền điều khiển của các cơ quan trung ương. Trong chiến tranh Độc lập, những tổ chức võ trang đó là nòng cốt của lực lượng Israel.
Hết chiến tranh, nhà cầm quyền Israel biết rằng cuộc xung đột với Ả Rập thể nào cũng tái phát, nên phải tổ chức gấp quân đội. Và Quốc hội ngay từ năm 1049 đã đặt ra các luật về quân dịch.
Trước tháng chạp năm 1953, đàn ông từ 18 đến 26 tuổi, phải thi hành quân dịch hai năm rưỡi; từ 27 đến 29 tuổi, thi hành hai năm. Phụ nữ không có chồng từ 18 đến 26 tuổi cũng phải thi hành quân dịch hai năm; những thiếu nữ trong các gia đình theo Do Thái giáo có thể được miễn.
Từ tháng chạp 1963, vì số người tới tuổi nhập ngũ đã tăng, nên chính quyền giảm thời gian thi hành quân dịch đi bốn tháng, còn lại 26 và 20 tháng.
Một số rất ít sinh viên Đại học Jérusalem và Viện Công Nghệ Haifa được hoãn dịch, muốn được hoãn dịch phải hoặc là học rất giỏi và rất can đảm, có tài chỉ huy, có tinh thần quốc gia, tinh thần chiến đấu cao, hoặc có khiếu đặc biệt về môn học nào đó. Thi hành quân dịch rồi, đàn ông thành quân nhân hậu bị cho tới 49 tuổi, đàn bà không có chồng tới 34 tuổi. Mỗi năm sĩ tốt hậu bị phải vô trại luyện tập liên tiếp trong 30 ngày, và mỗi tháng luyện tập thêm một ngày nữa (hoặc cứ ba tháng một, luyện tập luôn ba ngày; như vậy để cho họ hiểu các phương pháp chiến đấu mới, cách sử dụng các vũ khí mới mà lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu, hễ có lệnh động viên là chỉ trong khoảng từ 24 đến 72 giờ họ có thể ra mặt trận được rồi.
Israel chia làm ba khu quân sự:
- Khu Bắc, giáp giới Syrie.
- Khu Trung ương (cũng gọi là khu Đông) giáp giới Jordanie.
- Khu Nam giáp giới Sinaï và Gaza.
Binh lực cũng gồm đủ các binh chủng như mọi quốc gia khác, nhưng Israel chú trọng nhất tới không quân vì đã mấy lần kinh nghiệm rằng hễ làm chủ được không trung thì nắm chắc phần thắng.
Trong chiến tranh năm 1967, họ dùng những khu trục cơ Mirage của Pháp bay được 2000 cây số một giờ, chỉ 10 phút là tới địa phận Ai Cập: Thời bình cũng như thời chiến, không quân luôn luôn suốt ngày đêm ở trong tình trạng báo động Nhưng bộ binh bao giờ cũng là lực lượng căn bản, cho nên được luyện rất kỹ. Như độc giả đã biết, sĩ quan họ phải xung phong, nên họ không ra lệnh “tiến” mà ra lệnh “Theo tôi!”
Hễ ra trận thì phải tiến hoài, không được ngưng, không được lùi. Sau mỗi trận đánh, họ phê phán tỉ mỉ thái độ, hành động của mỗi viên chỉ huy, và người nào chiến đấu giỏi nhất, có tài nhất, bất kỳ ở cấp bậc nào, cũng được lên địa vị chỉ huy trong trận sau. Pháo binh cộng tác chặt chẽ với bộ binh, nên các sĩ quan bộ binh phải biết sử dụng các cỗ pháo y như một sĩ quan pháo binh; mà muốn làm sĩ quan pháo binh thì phải theo học một lớp huấn luyện sĩ quan bộ binh đã.
Bất kỳ trong một đơn vị nào, cũng có một số binh sĩ quân nhu kỹ thuật cao để có thể sửa mọi khí giới, xe cộ, dụng cụ ngay trên chiến trường, nhờ vậy sự tiến quân không vì những trục trặc bất ngờ mà mất khí thế, mất đà. Họ đào tạo rất kỹ các nhân viên kỹ thuật, và khi giải ngũ, các viên đó trở thành những thợ chuyên môn, những kỹ thuật gia có tài.
Hải quân tuy không mạnh, phải hoạt động ở hai nơi xa cách nhau, trên Địa Trung Hải và Hồng Hải (vì họ không được qua kinh Suez), nhưng đã tỏ ra đắc lực trong chiến tranh 1967, vì được huấn luyện rất kỹ, có tinh thần cao, lại được không quân yểm trợ. Họ xông xáo tấn công hải quân Ai Cập chứ không phải chỉ canh phòng bờ biển mà thôi.
***
Dưới đây là những đặc điểm mà cũng là ưu điểm của binh lực Israel được các nhà quân sự thế giới công nhận:
- Israel là quốc gia độc nhất trên thế giới mà trong thời bình phụ nữ cũng phải đăng lính, vì nước nhỏ, dân ít - chỉ hơn dân số Sàigòn - Chợ Lớn của ta một chút - nên họ phải tận dụng nhân lực của mọi hạng người, phụ nữ trong quân đội được dùng vào những việc hành chính phụ thuộc: thư ký, coi kho, điện thoại, truyền tin, gói dù, kiểm điểm dụng cụ, cứu thương, lái xe, thợ máy… Một số lãnh nhiệm vụ dạy văn hoá cho lính mới nhập ngũ: tiếng Hebreu, sử, địa, toán.
Đơn vị nào cũng có ít nhất là 15 thiếu nữ. Họ có sĩ quan phụ nữ của họ và chỉ sĩ quan của họ mới được xét xử họ.
Người ta nhận thấy rằng nhờ có họ mà tinh thần trong quân đội cao lên: thấy họ can đảm và tận tuỵ, không một nam binh nào dám lơ là với phận sự; bọn nam binh hoá ra chăm học hơn, ăn nói nhã nhặn hơn.
- Quân đội Israel rất trẻ trung, mạnh mẽ, gan dạ. Theo tướng Mỹ S.L.A. Marshall, một nhà chuyên môn quân sự, thì Israël cho các sĩ quan ngoài 40 tuổi về vườn hết. (Documentation française số 12-5-1962). Ra trận, từ cấp trên tới cấp dưới, đều phải chiến đấu liên tiếp, nhịn ăn nhịn ngủ, kiệt lực mới thôi.
- Không có “con ông cháu cha”, cũng không kể bằng cấp. Ai cũng như ai. Hễ giỏi cầm quân thì thăng cấp, trường hợp hoãn dịch rất hiếm. Phải chiến đấu có công trận, mới tiến lần lữa từ hạ sĩ tới các cấp sĩ quan. Có lẽ một phần nhờ vậy mà trong quân đội có tinh thần bình đẳng, anh em. Ai nấy đều hăng hái giúp đỡ nhau, không ganh tị. Họ rất đoàn kết để vui vẻ phục vụ.
- Sự huấn luyện quân sự rất kỹ, nghiêm khắc gấp ba Hoa Kỳ.
- Sự tuyển lựa không khắt khe: họ dùng cả những người bị chứng sắc manh (không phân biệt được một vài màu như màu đỏ, màu xanh), những kẻ đần độn, vô học, một phần vì họ ít người, một phần vì họ biết dùng phương pháp trắc nghiệm, tùy khả năng mà giao việc, không có người nào bỏ đi không làm được việc này thì làm việc khác. Vả lại vô trại rồi, sẽ được học thêm văn hoá ít nhất từ bốn đến sáu tháng (học đủ các môn chính ở tiểu học), học nghề nữa. Có đủ sách giáo khoa cho quân lính. Không những vậy mỗi khi thao diễn ở nơi nào, người ta cũng phát cho quân đội những tập nho nhỏ về địa lý, sử ký, phong tục, cả về cổ sử, về những kế hoạch khai thác miền đó nữa. Chính các cấp chỉ huy, những lúc nghỉ trong khi hành quân, cũng thường giảng giải cho quân lính về tất cả các điều cần biết về mỗi miền. Tối, người ta chiếu phim, tập hát, kể truyện cổ tích. Có quê hương, người ta mới yêu quê hương, có biết rõ miền nào người ta chiến đấu mới đắc lực ở miền đó.
Nhiều binh sĩ nhờ chính sách giáo dục trong quân đội mà khi giải ngũ học được một nghề, hoặc thi đậu được bằng cấp trung học. Lúc đó muốn vô đại học, họ sẽ được chính quyền giúp đỡ, giảm cho một nửa học phí.
- Một điểm đáng ghi nữa là Israël có nhiều đạo quân thiếu niên. Bộ Quốc phòng và Bộ Giáo dục hợp lực với nhau lập tổ chức Gadna, gồm những thiếu niên tình nguyện từ 11 đến 18 tuổi, huấn luyện cho họ thành hạng tiên khu, kiến thiết quốc gia trong thời bình, bảo vệ quốc gia trong thời chiến.
hính bọn thiếu niên đó sau chiến tranh Độc lập đã đắp con đường ở Ein Guedi, cùng với dân làng xây cất đồn luỹ ở các làng giáp biên giới.
Tổ chức Gadna hoạt động trong 120 trường trung học, 35 trường kỹ thuật, 21 trường canh nông, năm 1964 gồm 35.000 thiếu niên. Mỗi năm 10.000 theo học lớp huấn luyện riêng trong 10 ngày.
Lại còn tổ chức Nahal nữa cũng gồm những thiếu niên tiên khu, nhưng có tính cách quân sự hơn, đào tạo những chiến sĩ dũng cảm cùng sống với dân. Sau một khóa huấn luyện gắt gao trong vòng vài ba tháng, họ được gởi về các Kibbolltz để tập công việc canh nông. Quen thuộc việc đồng áng rồi, người ta đưa họ tới một miền biên giới để canh phòng và lập một xóm làng, một nông trại ở đó. Lúc giải ngũ, họ có thể ở lại trông trại. Một số học giỏi có thể được chính phủ giúp đỡ để theo học các lớp cao đẳng canh nông. Tổ chức đó rất đáng cho chúng ta chú ý. Chúng ta cần có những thanh niên vừa cầm súng vừa cầm cày.
Nhiều quốc gia phát triển ở châu Phi thấy những kết quả rực rỡ của quân đội Israel, muốn rút kinh nghiệm của họ, hoặc phái chuyên viên qua Israel tu nghiệp, hoặc yêu cầu Israel phái huấn luyện viên qua chỉ bảo cách tổ chức các đoàn Gadna, Nahai và đào tạo các cán bộ phụ nữ.
Israel đã giúp Côte d’Ivoire thành lập một đoàn phụ nữ, giúp Congo thành lập một đội nhảy dù.


Lịch sử Bài học Israel
Chương XI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ISRAËL
Kinh tế Israël. Kinh tế là vận mạng của một quốc gia. Hoạt động nào cũng tuỳ thuộc kinh tế: “phú chi” và “giáo chi”. Chiến tranh thắng hay bại phần lớn nhờ kinh tế. Kinh tế có vững thì nội trị mới yên, ngoại giao mới mạnh. Hoạt động kinh tế đã quan trọng nhất mà lại khó khăn nhất. Israël là nước mới thành lập, lại rất nhỏ, cho nên càng gặp nhiều nỗi khó khăn.
Thế giới ở trong một hoàn cảnh chính trị, mà sự phân công cho các quốc gia là điều không thể quan niệm nổi. Mười năm trước một vài chính khách Việt Nam bảo: nhân loại vẫn còn đói, vẫn còn thiếu thực phẩm, vậy thì tại sao mình không chuyên về canh nông mà lo phát triển kỹ nghệ làm gì làm sao có thể cạnh tranh về kỹ nghệ với Mỹ, Nhật, Đức, Pháp được? Tại sao ư? Nếu chuyên về canh nông thì nguy hiểm lắm. Nếu vì một lý do chính trị nào đó, khách hàng quan trọng nhất của mình không mua lúa cho mình nữa thì chết, lại rất có thể xảy ra một biến cố nào đó mà dân mình sẽ không có lấy một manh bố tời để che thân, như nông dân miền U Minh trong thế chiến vừa rồi. Cuba chuyên sản xuất đường mà chịu nhiều tủi nhục, bóc lột; vài nước ở Nam Mỹ chuyên trồng chuối mà có hồi lâm nguy về kinh tế. Cho nên trên thế giới hiện nay, nước nào cũng rán lo tự túc càng nhiều càng quí. Ngay những nước nhỏ một vài triệu dân cũng phải vậy, nếu còn muốn được tương đối tự do một chút, khỏi phải lệ thuộc về mọi phương diện.
Đó là tình trạng bi đát của các nước nhược tiểu như Việt Nam, Israel. Vấn đề là làm sao sản xuất được tạm đủ mọi cái tối cần thiết, do đó phải có một nền kinh tế đa phương. Riêng Israel, còn thêm một bó buộc nữa. Nước thì nhỏ mà ba phía là địch, muốn chống xâm lăng thì dọc các biên giới, ngay cả trong sa mạc Neguev nữa cũng phải có dân ở, phải có những làng xóm tự vệ được, để hoang chỗ nào là địch có thể lẻn vào chỗ đó. Mà muốn cho dân cư ở khắp nơi thì chỉ có cách là phát triển canh nông chỉ có canh nông mới thực sự lan rộng mà “chiếm” được mọi nơi; kỹ nghệ chỉ tập trung ở một địa điểm nhỏ hẹp thôi. Vì vậy dù là giữa sa mạc sự khai phá rất tốn kém mà chính quyền Israel cũng không thể bỏ hoang. Có khai phá thì mới lập làng xóm được và làng xóm sẽ xây cất đồn luỹ, đồn binh. Ở Israel canh nông là một phương tiện chống địch và bảo vệ quốc gia.
***
Đã bị bó buộc như trên, Israel còn gặp rất nhiều khó khăn nữa. Diện tích chỉ có 20.700 cây số vuông, bằng ba tỉnh lớn ở Nam Việt Nam. Chiều dài được bốn trăm cây số mà chiều ngang có chỗ chỉ có 15 cây số, sự bảo vệ thật khó khăn. Chỉ một phần tư đất đai là trồng trọt mới có lợi; một nửa 10.000 cây số vuông là sa mạc, còn một phần tư nữa là rừng (ít có gỗ tốt) và những cỏ xấu.
Lại thêm nỗi thiếu nước, thành thử khó khai phá. Ba phần tư đất trồng trọt được luôn luôn thiếu nước Khoáng sản nghèo nàn: Hắc hải có một số khoảng chất, nhưng phí tổn để khai thác khá nặng.
Sa mạc có mỏ phốt phát; mỏ Timma sản xuất mỗi năm được vài ngàn tấn đồng, thiếu hẳn mỏ sắt, mỏ than. Dầu lửa chỉ đủ cung cấp từ 5 đến 10% nhu cầu của dân chúng. Điện lực rất kém, một phần vì không thoả thuận được với Jordanie để dùng những giòng nước, thác nước ở sông Jourdain, hồ Tibériade.
Tình hình xung đột của các quốc gia Ả Rập làm cho sự phát triển kinh tế của Israel chậm lại, bị hạn chế. Các quốc gia đó bao vây kinh tế Israel, cấm Israel dùng kinh Suez. Israel không mua được dầu lửa, thực phẩm, khoáng chất của họ, đương nhiên cũng không bán được gì cho họ. Hồi 1920, già nửa sản phẩm Palestine xuất cảng qua các nước chung quanh, hiện nay không còn được lấy vài phần trăm. Có hồi hãng xe hơi Renault của Pháp muốn lập một xưởng lắp xe ở Israel, sau phải bỏ vì sợ Ả Rập tẩy chay, và cũng sợ có chiến tranh thì xưởng bị tàn phá.
Nên kể thêm mốt khó khăn nữa trong mươi năm đầu: sự hồi hương của một triệu người Do Thái ở khắp nơi. Phải lo tiếp thu, định cư cho họ, dạy dỗ họ. Chính phủ Israel đã phải tiêu vào việc đó biết bao nhiêu tỷ bạc.
***
Nhưng Israel cũng được một số yếu tố thuận lợi.
- Trong chiến tranh người Ả Rập tản cư, để lại nhà cửa, đất đai (không có kỹ nghệ).
- Trước chiến tranh 1948, trong nhiều đợt hồi hương, một số Do Thái có học thức, có lý tưởng, có tinh thần hy sinh vô Palestine, phần nhân lực đó rất đáng kể. Israel lại nhận được nhiều sự giúp đỡ ở ngoài nữa: Mỹ đã viện trợ được 1,6 tỷ Mỹ kim, các tổ chức Do Thái thế giới tặng được 2 triệu Mỹ kim, Đức bồi thường chiến tranh nữa (không rõ bao nhiêu), ông Joseph Klalzmann trong sách đã dẫn, cho rằng trong mười năm từ 1952 tới 1962, trung bình mỗi người Do Thái được trợ cấp mỗi năm 100 Mỹ kim (khoảng 15.000đồng tiền VN hiện nay (1973) . Dĩ nhiên là chính quyền Israel dùng số tiền đó vào các việc kiến thiết và cũng để mua khí giới chống với Ả Rập.
Hiện nay Đức không còn bồi thường chiến tranh nữa mà số tiền Mỹ viện trợ chắc cũng giảm đi nhiều.
Kết quả khả quan
Các kỹ nghệ điện, điện tử, hoá học, luyện kim, chuyên chở, đã tiến bộ rõ rệt. Số công nhân trong các xí nghiệp tăng từ 127.000 năm 1955 lên 215.000 năm 1964, nghĩa là từ 21,9% lên 25,3% tổng số người hoạt động trong nước.
Sức sản xuất từ 1948 đến 1958: về điện lực tăng lẻn gấp 4, về xi măng tăng lên từ 160.000 tấn tới 620.000 tấn; về thương thuyền từ 4 chiếc lên 34 chiếc, trọng tải tăng lên gần 70 lần.
Sức sản xuất tính theo đầu người, tăng 80% tử 1954 đến 1965.
Năm 1965, bán trong nước được 100.000 xe hơi.
Tổng số xuất cảng tăng rất mau:
Năm 1949: 4 triệu mỹ kim
Năm 1957: 222 triệu mỹ kim
Năm 1964: 649 triệu mỹ kim
Nhưng số nhập cảng cũng tăng theo, và số thiếu hụt vẫn quan trọng:
Năm 1950: hụt 228 triệu Mỹ kim
Năm 1964: hụt 528 triệu Mỹ kim
Vì mấy lần chiến tranh, phí tổn rất nặng, tiết kiệm được rất ít: từ 3 đến 4% lợi tức quốc gia, mà muốn mau phát triển thì cần phải tiết kiệm từ 8 đến 15% lợi tức quốc gia. Hiện nay giới trí thức và thợ thuyền chuyên môn đòi tăng lương, khả năng tiết kiệm để đầu tư càng kém, mà số vốn ngoại quốc đầu tư ở Israel cũng đã giảm từ 34,3% lợi tức trong nước năm 1952 xuống còn 24,2% năm 1964 (Những con số đó, rút trong báo Problème économiques số 24 – 11-66)
Sau chiến tranh 1967, tình hình kinh tế của Israel chắc không đẹp lắm: quân đội phải chiếm đóng những miền rộng, gấp hai đất đai Israel mà không khai thác gì được tại những miền đó cả vì dân chúng Ả Rập không hợp tác với họ.
Tuy nhiên, so với các dân tộc Ả Rập ở chung thì dân Israel có một mức sống cao hơn nhiều: lợi tức trung bình mỗi năm của mỗi người dân là 3.700 quan Pháp năm 1962 tức vài khoảng 60.000 đồng VN hiện nay (tiền Việt Nam Cộng hoà năm 1972). Theo André Piatier trong Encyclopedie Française Larousse thì năm 1953-54 lợi tức trung bình của Israel là 450 Mỹ kim, của Pháp là 700 Mỹ kim, của Thái Lan. Ấn Độ dưới 100 Mỹ kim.)
Con số đó chưa thế so sánh với số lợi tức trung bình ở các nước châu Âu được, nhưng có đặc điểm này là không có sự cách biệt lớn giữa lợi tức các cấp cao và các cấp thấp. Ít có người lương dưới 350 quan Pháp, mà cũng rất ít người lương cao trên 1.650 quan Pháp: trừ thuế đi thì sự cách biệt còn giảm hơn nữa. Nhân viên cấp cao ở Israel lãnh lương ít hơn nhân viên cùng cấp ở Pháp mà đóng thuế nặng hơn. Các kỹ sư Israel vì vậy đã đã đình công năm 1962 để đòi cải thiện đời sống.
Một đặc điểm nữa là đời sống nông dân tương đối dễ chịu. Hiện nay số người hoạt động phân phối theo ba hạng như sau:
20% vào nông nghiệp
30% vào kỹ nghệ
50% vào dịch vụ
{Tổng số người hoạt động)
So với các nước phát triển thì như vậy số người làm trong kỹ nghệ hơi kém (khoảng 40% mới vừa) mà số người làm các dịch vụ (nhà buôn, công tư chức đủ các ngành…) quá cao (khoảng 40% thì vừa).
***
Sự phát triển về canh nông. Trong mọi ngành kinh tế của Israel canh nông chiếm địa vị quan trọng nhất và đạt được những tiến bộ tốt đẹp nhất, đáng cho các quốc gia kém phát triển tìm hiểu để rút kinh nghiệm.
Ông Joseph Klatzmann trong sách đã dẫn bảo hoạt động canh nông của Israel thật lạ lùng, vì ba lẽ:
Thứ nhất: Israel có những hình thức kinh doanh về canh tác mà không nước nào có. Ngoài những hình thức kinh doanh thông thường như cá nhân, kinh doanh, sống cạnh nhau trong làng xóm (y như ở nước mình), như nông trại của quốc gia (nước ta chưa có, Nga có) còn những hình thức rất đặc biệt:
Kibboutz, (nông trường cộng đồng) đa số gồm vài trăm người tự ý sống chung với nhau, cùng làm, cùng ăn, cùng hưởng quyền lợi như nhau, y như một đại gia đình, nhu cầu của mỗi người được cộng đồng chu cấp; hình thức đó là một thứ cộng sản tự do.
Mochav ovedim (nông trường bán cộng đồng, bán cá nhân): đất cát là của chung, cộng đồng cho mỗi người mướn tự canh tác, nhưng bắt buộc mọi người phải hợp tác với nhau.
Mochav chitoufi (nông trường hợp tác) mọi người khai thác chung đất đai chia lợi tức cho nhau và mọi người dùng lợi tức cách nào tuỳ ý.
Hình thức này ở giữa hai hình thức trên.
Vì những hình thức kinh doanh mới mẻ đó là những thì nghiệm rất phấn khởi của Israel, nên chúng tôi sẽ dành riêng chương sau để xét kỹ.
- Thứ nhì: những gắng sức của dân chúng và chính quyền Israel về canh tác đáng làm gương cho mọi xứ, gắng sức vè sự đào tạo cán bộ, về sự khai khẩn, vỡ đất hoang, về sự chống với nạn thiếu nước.
Thứ ba: kết quả làm cho mọi người phải ngạc nhiên, chỉ trong mười mấy năm kết quả của họ đã vượt Pháp, cả sa mạc Neguev, một nửa diện tích của Israel, một miền toàn động cát và đồi cát đã mơn mởn lúa xanh, đã “trổ bông như một giò huệ” (chữ trong Thánh kinh). Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt xét những gắng sức và kết quả ấy.
***
Một dân tộc quyết tâm làm hồi sinh lại một miền đã chết từ mấy ngàn năm. Gắng sức quan trọng nhất là đào tạo cán bộ, phổ biến phương pháp canh tác. Chính quyền Israel đã sáng suốt hiểu rằng vấn đề đó là vấn đề số1. Thực ra, vấn đề đó đã được người Do Thái hiểu từ lâu, nhưng từ khi Israel độc lập, nó mới được đưa lên hàng đầu thành một quốc sách, theo ông Joseph Klatzmann, từ năm 1870, trường canh nông đầu tiên của Israel đã được thành lập ở Mikvé-Israel. Năm 1962 trường đào tạo 650 học sinh mà một phần ba là con nông dân. Học trong ba năm. Các học sinh giỏi nhất được học thêm một năm nữa, và sau năm thứ tư, đậu bằng Tú tài canh nông, có thể lên Đại học. Chương trình học rất nặng: mỗi ngày 6 giờ cua (cours) và 4 giờ làm lụng ở nông trại rộng 350 hecta trồng đủ các loại lúa, cây ăn trái, rau.
Ở trường ra, họ thành những cán bộ đi về các làng mới thành lập để phổ biến cách thức canh tác hoặc dạy môn canh nông trong các trường tiểu học (muốn được dạy, họ phải học thêm một năm về sư phạm).
Ông Joseph Klatzmann không cho biết thì vô lượng học sinh phải có trình độ ra sao, nhưng chúng ta có thể đoán rằng họ đã học hết ban tiểu học mà năm cuối cùng ban đó tương đương với lớp đệ ngũ của ta. Muốn hiểu sự quan trọng của trường đó, chúng ta nên nhớ xứ Israel năm 1962 chỉ có hơn hai triệu dân. Dân số của ta hiện nay 14 - 15 triệu, cứ theo tỷ số dân mà tính, muốn đuổi kịp họ, chúng là phải có một trường canh nông lớn gấp 6, gấp 7 trường Mikvé - Israel, nghĩa là gồm khoảng 4.000, 4.500 học sinh. Mà xin độc giả nhớ kỹ: Israel không phải chỉ có một trường canh nông đó, còn ba chục trường nữa, tổng cộng 5.500 học sinh (tương đương với 33.000 - 38.000 ở nước ta). Sự gắng sức của họ thật kinh khủng! Nhất thế giới!
Nhờ vậy mà tại những làng mới thành lập (nhất là trong thời Do Thái khắp nơi ùn ùn hồi hương) họ gởi tới rất nhiều huấn luyện viên canh nông, tính ra được một huấn luyện viên cho hai mươi gia đình nông dân.
Mỗi làng mới được thành lập theo ba giai đoạn như sau: Mới đầu các người hồi hương được trả công từng ngày để xây cất làng, trồng trọt. Khi chính quyền bắt đầu chia đất, họ chưa thể tự khai thác lấy, tự quản trị lấy được. Trong giai đoạn đó các huấn luyện viên hướng dẫn họ về mọi vấn đề: hành chính, mua bán thực phẩm dự trữ. Huấn luyện viên giữ nhiệm vụ thư ký của làng.
Chính phủ còn gởi tới làng một nữ cán bộ xã hội để chỉ cho phụ nữ những điều cần thiết về vệ sinh, về gia chánh. Nhiều người phương Đông mới hồi hương không biết rằng sữa cần thiết cho sức khoẻ của trẻ. Phải tập cho họ uống sữa. Lại phải có huấn luyện viên khuyến khích, chỉ cách cho họ nuôi bò, làm ruộng. Như vậy là mỗi làng từ 60 tới 80 gia đình nông dân có ít nhất là ba, bốn cán bộ sống thường trực với dân, chứ không phải lâu lâu mới ghé lt bữa, ít giờ rồi về quận như ở nước ta.
Những huấn luyện viên của họ làm gì cũng được, biết mọi kỹ thuật canh tác, biết công việc quản lý một nông trường. Nếu làng chuyên khai thác một ngành nào trồng trọt một giống cây nào thì chính phủ phái tới một chuyên viên nữa. Chuyên viên này phục vụ trong ba bốn làng, ở mỗi làng trong một thời gian rồi qua làng khác.
Giai đoạn đầu đó mất vài ba năm. Qua giai đoạn sau, dân làng bắt đầu tự trồng trọt quản lý được rồi. Huấn luyện viên lựa thanh niên trong làng, đào tạo họ để sau này họ thay thế mình, lúc này có thể không ở thường trực trong làng nữa. Làng đã tiến dần tới sự tự trị.
Qua giai đoạn thứ ba, làng chỉ thỉnh thoáng mới nhờ chính quyền làm cố vấn về kỹ thuật để theo dõi những cải cách tiến bộ mới mẻ nhất mà cải thiện phương pháp canh tác. Có làng muốn nâng cao trình độ văn hoá của dân, lập tủ sách, mua những sách kỹ thuật của phương Tây về nghiên cứu. Người ta nhận thấy rằng trình độ văn hoá của dân càng cao thì hiệu năng của họ càng tăng.
Điều lạ lùng nhất là Israel làm sao kiếm được nhiều huấn luyện viên như vậy. Xét nước ta, rất ít thanh niên lựa nghề canh nông, đại đa số vào các trường luật, trường văn khoa, y khoa, dược khoa. Mà những thanh niên theo ngành nông lâm tốt nghiệp rồi cũng chỉ thích làm ở phòng giấy tại tỉnh, chứ chẳng ai chịu về đồng ruộng sống với nông dân, làm lụng như nông dân.
Ngay Âu, Mỹ cũng thiếu huấn luyện viên canh nông. Một phần tại thiếu trường canh nông, nhưng một phần cũng tại các kỹ sư, cán bộ canh nông của họ không chịu sống ở đồng ruộng. Chính tại Nga cũng có cái tệ hại đó. Người ta khinh nghề tay lấm chân bùn và kẻ ở trường canh nông ra, làm ít năm rồi bỏ nghề, lái xe điện hoặc làm hãng buôn để được ở châu thành, đến nỗi chính quyền Nga các năm 1952-53 đã cương quyết đưa từ 150.000 đến 200.000 chuyên viên canh nông mọi cấp về làm các nông trường tập thể “kolkhoz”, “sovkhoz”.
Vậy thì nhờ đâu mà Israel nhiều huấn luyện viên canh nông tới mức đó? Chỉ nhờ tinh thần của họ, chứ không có gì khác. Chính quyền hết lòng khuyến khích họ, chỉ dẫn họ từng chút từ bước đầu cho đến bước cuối. Còn dân chúng thì hiểu rằng phát triển canh nông là yêu nước, là cứu quốc, làng mạc cỏ mọc đầy trên sa mạc và ở khắp biên giới thì mới giữ được nước. Nếu cứ ham tiền bám cảnh sung sướng mà dồn về các thị trấn, về Tel-Aviv, Haifa, bỏ hoang đồng ruộng, đồi núi thì nhất định sẽ mất nước. Hiểu vậy nên có nhiều ông già cũng xin vô học các trường canh nông, làm gương cho con cháu. Khi họ vô học, ruộng nương của họ mà thiếu người trông nom thì láng giềng họ trông nom giùm cho. Học xong rồi, họ trở về làng làm cho họ và truyền bá kỹ thuật, kiến thức cho bà con. Huấn luyện viên của họ không có tinh thần công chức, mà có tinh thần tiên khu, tinh thần cứu quốc.
Trong những hồi đầu, làn sóng hồi hương ồ ạt chính quyền Israel chưa tổ chức kịp và thiếu kinh nghiệm, gom những người Do Thái từ nhiều xứ khác nhau, phong tục, lối sống trái ngược nhau như dân Roumanie với dân Maroc, đưa về một miền để tạo một làng mới. Có lẽ nhà cầm quyền nghĩ rằng có sống chung với nhau người ta mới mau hiểu nhau mà quốc gia mới dễ thống nhất. Nhưng chẳng bao lâu họ thấy rằng chính sách đó không có kết quả: những dân đó khó sống chung với nhau lắm và rốt cuộc hoặc người Roumanie đi nơi khác, hoặc người Maroc đi nơi khác tìm người cùng xứ.
Nhà cầm quyền Israel phải tổ chức lại: lập những xóm làng nho nhỏ thôi mà dân cư gồm toàn những người cùng xứ, có khi cũng một giới nữa.
Còn một vấn đề nữa khó giải quyết: muốn tăng năng suất thì nên lập những làng nhỏ, mỗi người dân có một khoảnh đất riêng cày cấy lấy hay là nên lập những nông trường thật lớn tổ chức như một đại xí nghiệp mướn nhiều nhà chuyên môn? Cách sau có lợi về phương diện kinh tế, vì có thể khai thác một cách hợp quy tắc khoa học, dùng máy lớn, giảm chi phí, nhưng lại bất lợi về phương diện xã hội, quốc gia: những công nhân làm mướn đó không có tinh thần trách nhiệm, hợp tác, không quyến luyến với đất họ cầy, không gây được một cộng đồng. Từ năm 1963, hình như chính quyền Israel thiên về cách thứ nhất và mặc dầu các công trường lớn năng suất cao thật, người ta cũng tính cắt nó thành những khu nhỏ chia cho dân để họ tạo thành những cộng đồng tự trị. (Ta nên nhớ ở Israel 80% đất thuộc về quốc gia).
***
Cộng trình khai khẩn. Khi Palestine còn là thuộc địa của Thổ, rồi đất bảo hộ của Anh thì đất đai cằn cỗi đến nỗi chính người Ả Rập lại đó cũng thấy nản, chỉ cày cấy vừa đủ ăn, và bán nhiều miếng lớn cho Do Thái. Đất Palestine cần cỗi thật. Về phương diện canh nông nó gồm bốn miền.(1) Ở chương I, phần I, chúng tôi chia làm ba miền là đứng về phương diện địa lý; miền Bắc ở chương đó gồm miền rừng núi (số 2) và thung lũng (số 3) ở đây.
1. Cánh đồng ven biển. Sát bờ biển là những động cát, không trồng được gì; phía sau những động cát đó là đất tốt, mầu mỡ, trồng lúa, trái cây, rau được, thường thiếu nước. Miền này từ hồi nào tới giờ vẫn là miền phong phú nhất của Palestine nhưng rất hẹp; sau chiến tranh Độc lập, chính quyền càng gắng sức khai thác: những vườn cam, quít, chanh, bưởi ở Tel Aviv, Haifa là một nguồn lợi lớn của Israel.
2. Miền rừng núi có trồng nho, ô-liu, một vài thứ lúa, nhưng phải bứng đá đi và chống nạn nước mưa xối xuống làm cho đất lở và mất màu mỡ.
Chính quyền Israel đã tận lực khai phá: nghiên cứu từng khoảng xem lớp dưới có tốt không, có đáng công khai phá không, rồi dùng máy, dùng thuốc nổ bứng đá trên mặt đi, tới một lớp sâu đủ cho cây cối mọc được, sau cùng, dùng máy ủi san phẳng thành như một khoảng sân, xây tường thấp ở chung quanh để giữ nước mưa, lại, không cho xối xuống chân núi, tường không xây bằng xi-măng, chỉ chất đá lên thôi. Có lai lớp tường song song nhau, giữa hai lớp đó chất đá vụn đã bứng; các luống cầy đều theo những đường bình hành, không có dốc để giữ phân. Công việc thực tốn kém, khó nhọc và đưa diện tích khai thác tăng lên được 350.000 dounam (350 km2).
3. Liền thung lũng, đặc biệt là thung lũng Jourdain, miền này xưa gồm toàn đầm lầy, đất đen, tốt có nhiều phân lá cây mục do nước nữa xối từ trên cao xuống. Nhưng người Ả Rập bỏ hoang, vì khí hậu rất xấu, nóng quá, ẩm thấp quá, ở ít lâu là bị bệnh sốt rét. Chính quyền Israel phải tháo nước, lấp hồ rồi mới trồng trọt được. Công việc đó hoàn thành năm 1958 và làm cho diện tích khai thác tăng lên được 60.000 dounam (Mỗi dounam là 1000 thước vuông.- 350.ooo dounam bằng 350 cây số vuông). Hồ Houlla và đầm lầy Poleg nay đã thành cánh đồng trồng được đủ các giống lúa và cây ăn trái.
4. Nhưng cả ba miền trên chỉ chiếm non nửa diện tích của Israel, già nửa còn lại là sa mạc Neguev gần hoàn toàn bỏ hoang.
Hồi trước chỉ ở phía Tây, giáp Gaza, tức gần biển và ở phía Bắc, dưới chân những đồi Beercheva là nơi trồng trọt được, còn những miền núi, miền thung lũng Arava đều bỏ hoang. Hầu hết là những đồi cát di động hoài vì gió thổi. Khí hậu rất khô khan, càng về phía Nam càng ít mưa. Tại Beercheva, mỗi năm chỉ mưa 20 phân nước, xuống thấp chút nữa chỉ còn được 10 phân, rồi 5 phân. Tại Eilath ở cực Nam, mỗi năm chỉ mưa được 3,1 phân nước, không bằng một cơn mưa lớn lâu nửa giờ ở nước mình. Mà mỗi năm chỉ mưa có bốn tháng; từ tháng tư tới tháng mười nắng như nung. Nước mưa đổ xuống, 60% bốc lên thành hơi, 5% chảy xuống các sông ngòi, 35% thấm vào đất, xuống tận các mạch ở dưới sâu rồi chảy ra biển Địa Trung Hải, Hồng Hải, thế là mất đi bốn phần năm, đất chỉ giữ lại từ 10 tới 20% nước mưa. Nghĩa là tuỳ chỗ, đất sa mạc Neguev chỉ giữ được 4 phân, 2 phân, 1 phân hay 6 ly nước mưa một năm. Như vậy thì trồng trọt sao được? Chẳng trách người Anh thời còn bảo hộ Palestine đã lắc đầu, không muốn khai thác miền đó. Họ chỉ kiếm lợi, mà Neguev quả thực không có lợi gì cho họ.
Nhưng người Do Thái nghĩ trước hết tới sự tồn vong của dân tộc. Họ đọc Thánh kinh, đọc cổ sử, thấy rằng Neguev đã có thời thịnh vượng, canh nông và kỹ nghệ phát đạt, nuôi nổi từ 80.000 tới 100.000 người. Thời đó Beercheva là một ốc đảo, Abraham đã lập bản dinh ở đấy. Bộ lạc Simeon cĩng sống ở phía Nam Beercheva. Thời vua David, dân cư Bắc Neguev khá đông. Vua Salomon đã khai thác mỏ đồng ở Timna, có một đội thương thuyền trên Hồng Hải, chở sản vật từ Eilath qua phương Đông. Vùa Osias xây đắp nhiều đường, cất tháp canh trong sa mạc: ở đó các dân tộc chung qnanh lui tới buôn bán. Từ thế kỷ thứ hai tới thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, Neghev là một trung tâm quan trọng, thịnh vượng, cho nên người La Mã mới xây một dãy đồn luỹ cho lính tới đóng và cày cấy.
Hồi đó, các thương nhân từ Ấn Độ chở những hàng rất quý qua La Mã bán, đi qua Neguev. Họ lời nhiều, tiêu pha rộng rãi, và dân cư Neguev tìm mọi cách trồng lúa, rau, trái cây để bán cho họ.
Nước mưa ít quá, họ đắp đập trên dòng sông lạch, đưa nước vào ruộng; họ xây những cái hồ lớn hứng từng giọt nước mưa; họ đào rãnh, đào mương đưa nước từ trên đồi xuống những thửa ruộng nho nhỏ ở chân đồi, họ trồng được lúa, cây ăn trái, rồi lúa, cây lại giữ nước mưa cho họ, họ càng gắng sức thì kết quả càng tốt đẹp. Tóm lại họ đã tạo nên đất tốt.
Nhưng con người tạo nên đất tốt thì con người cũng tạo nên sa mạc. Từ khi người Ả Rập tới chiếm thì Neguev thành hoang vu, vì muốn qua phương Tây họ đi những con đường khác, không đi qua Neguev nữa. Buôn bán không được, dân cư Neguev bỏ đi nơi khác, cây cối một phần không được săn sóc mà chết, một phần bị các đoàn du mục phá phách, đất đai cằn đi, hết phân, thành đất chết. Và sa mạc Neguev nằm ngủ trên một ngàn năm đợi người Do Thái tới mới hồi tỉnh.
Họ bắt đầu khai phá năm 1943 ở ba nơi: Gvouloth, Revivim, Beth Eshel, đào sâu thấy có mạch nước, nước tuy hơi mặn, nhưng có thể dùng để tưới vài loại cây được. Hễ có cây, bất kỳ cây gì là đất sẽ hồi sinh.
Năm 1946, một lớp người tiên khu nữa tiến sâu hơn xuống phương Nam, đặt ống dẫn nước từ xa, tới (170 cây số), thành lập 11 làng, mỗi làng khai phá khoảng 50 mẫu Anh, tức trên 25 héc-ta.
Tới năm 1948, trong chiến tranh, họ đã có 27 làng trong miền, trừ một làng, còn 26 làng kia đều chống được địch một cách rất anh dũng. Các ống dẫn nước bị phá hết. Sau chiến tranh, chính quyền Israel xây dựng lại, và công việc tiến triền rất mau.
Chúng ta sống ở một xứ dư nước, sông rạch chằng chịt, nỗi năm mưa từ ba tới bốn thước nước, cho nên không thấy hết sự quan trọng vô cùng của nước, không cảm được nỗi khổ của người dân Neguev.
Chúng ta chỉ biết rằng cần có nước để nấu nướng, tắm rửa, không biết rằng không có nước thì trồng trọt không được mà phát triển kỹ nghệ cũng không được Muốn chế tạo một tấn giấy phải dùng 100 thước khối nước; muốn sản xuất một tấn sắt theo những phương pháp hiện nay, phải dùng 300 khối thước nước. Muốn sản xuất bất kỷ một vật gì cũng cần nước. Cho nên vấn đề nước là vấn đề nhà cầm quyền Israel phải giải quyết trước hết.
Họ dùng những cách dưới đây:
- Đào giếng, có khi đào sâu cả trăm thước mới tới mạch, nhưng nhờ các máy tối tân, công việc đó không khó; miễn có nước là quí rồi, dù nước hơi mặn họ cũng không nản lòng. Nước mặn có thể dùng trong vài công việc về kỹ nghệ, chẳng hạn làm cho máy nguội; lại có thể pha nước ngọt vào nước mặn để tưới vài loại cây, để tắm rửa.
- Ngăn nước mưa trên núi cho khỏi chảy phí là đưa nó tới những nơi có nước, họ xây những đập trên sông trên lạch, không cho chảy ra biển; nếu chưa có cách dùng những nước đó thì cứ cho nó chảy vào sa mạc, chỗ đất hoang, nó sẽ thấm xuống đất, thành mạch nước rồi sau đào giếng và lấy nước. Cách đó là cách cất nước ở dưới đất để dành dưới đó, vì để trên mặt đất, nó hốc hơi, mất đi gần hết.
- Nếu bất đắc dĩ phải có hồ ao chứa nước thì họ đổ một chút dầu (một loại dầu riêng) thành một lớp mỏng trên mặt nước, dầu không bay hơi như nước và che được lớp nước ở dưới. Họ không dùng hồ nuôi cá; cá biển có dư rồi, nước hồ, ao dùng để tưới cây.
- Họ trồng những cây dầu gió (eucalyptus), tẩy hà liễu (tamaris) ở sa mạc, những toại cây rễ đâm sâu không cần phải tưới, để ngăn sự di động của các đồi cát (những cây đó ngăn được 68% sức gió) mà cũng để có bóng mát, để giữ nước mưa.
- Họ gây những đám mưa nhân tạo phương pháp này chưa có kết quả như ý.
- Các nhà bác học của họ đang tìm cách làm cho nước biển bớt mặn, họ đã thành công ít nhiều, hy vọng sau này sẽ kiếm được một phương pháp rẻ tiền.
- Họ định dùng sức nóng của mặt trời để cất nước biển thành nước ngọt; chưa có kết quả khả quan; sau này có lẽ họ sẽ dùng nguyên tử lực vào công việc đó.
Nhưng cho tới nay phương pháp hữu hiệu nhất vẫn là dẫn nước từ những miền dư tới những miền thiếu. Công việc dẫn thuỷ đó rất tốn kém.
Có hai công thành lớn nhất: Công trình Yarkon- Neguev dẫn nước từ sông Yarkon, các nguồn Roch Ayin (gần Tel Aviv) đưa xuống miền Neguev.
Dùng 106 cây số ống dẫn nước đường kính trên một thước rưỡi dẫn được 100 triệu thước khối nước mỗi năm để cung cấp nước cho 75 làng trên một khoảng đất rộng 15.000 héc-ta.
Họ mới kéo dài thêm công trình đó lên phía Bắc để dẫn nước ở hồ Kiunereth xuống Tel Aviv, rồi từ Tel Aviv nước theo đường ống Yarkon-Neguev mà xuống miền Neguev.
Bản đồ hệ thống dẫn thủy của Israël

Chú thích:
Kinh từ hồ Kinnereth tới Beth Netofa.
Hệ thống Galilée Tây – Kichon.
Ống dẫn nước từ hồ Kinnereth tới Beth Chean
Ống dẫn nuốc từ hồ Kinnereth tới Neguev.
Hệ thống YarKon Neguev
Đường chở nước giếng tới Elath Lac: hồ
Projeté: còn trong dự án.
Frontières: biên giới;
Tunnel: đường hầm
Station de pmopage: trạm bơm nước
Canal: kinh (kênh)
Mer morte: Tử hải
Conduite: ống dẫn nước
Réservoir: hồ chưA nước
Công trình thứ nhì là công trình Tây Galilée-Kichon, dẫn nước từ miền tây Galilée đưa lại miền Emek Fezréel. Công trình này đã dẫn được 85 triệu thước khối nước, và khi hoàn thành sẽ dẫn được 100 triệu thước khối.
Ngoài ra còn những con kênh từ hồ Kiunereth tới Beth Chan, và một ống dẫn nước giếng trong sa mạc Neguev xuống Eilath.
Bấy nhiêu công trình vẫn chưa cung cấp đủ nước, nên họ vẫn phải tiết kiệm từng chút nước. Trong kỹ nghệ, họ tìm cách dùng nước biển để thay nước ngọt, trong canh nông họ nghiên cứu xem mỗi loại cây cần một số nước tối thiểu là bao nhiêu, và sẽ không dùng quá mức đó. Họ còn tìm cách dùng lại nước trong ống cống các châu thành sau khi lọc và khử trùng.
Chúng ta có thể tin chắc nhờ những tiến bộ của khoa học một ngày kia họ giải quyết được về thiếu nước và các quốc gia Ả Rập ở chung quanh sẽ rút được kinh nghiệm của họ mà các sa mạc ở Ả Rập, ở Phi châu sẽ dần dần thành những cánh đồng mơn mởn như Neguev.
***
Kết quả làm thế giới ngạc nhiên. Nhờ những cố gắng phi thường đó, hai triệu dân Israel đã làm cho trong mười ba năm số làng mạc và diện tích trồng trọt của họ tăng lên gấp bốn, gấp năm.
Tháng chạp năm 1948, họ có 326 làng, tháng chạp năm 1962 có 706 làng. Nông dân năm 1948 là 110.000 (kể riêng Do Thái), năm 1962 là 303.000. Năm 1948-1949 diện tích đất cầy là 160.000 héc ta, năm 1962-63 là 420.000 héc-ta.
Diện tích đất được dẫn nước vô là 30.000 héc-ta năm 1948-49, năm 1962-63 là 144.000 héc-ta.
Năm 1948-1949 dân chúng được dùng 300 triệu thước khối nước (kể cả nước dùng trong nhà và trong ngành kỹ nghệ (số này bằng một phần 5 tổng số nước dùng trong nước); năm 1962-1963 số đó tăng lên 1.277 triệu thước khối.
Nhờ Israel có nhiều miền khi hậu khác nhau ôn đới như ở trên núi, miền Bắc, nhiệt đới như ở bờ biển và ở miền Nam - nên họ trồng được nhiều loại cây và rau. Cây ăn trái có táo, lê, dâu tây, chuối, avocat (cây avocat ở nước ta mới trồng thử ở Đà Lạt, sau này người VN gọi là trái bơ) Vườn hồng cam, quít, chanh chiếm 36.000 héc ta, gấp ba hồi mười lăm năm trước. Họ xuất cảng được 20 triệu thùng cam, quít, bưởi, chanh; còn tính trồng thêm 5.000 héc-ta nữa và lúc đó sẽ xuất cảng được 80 triệu thùng.
Năm 1958, trái cây của họ đã đem cho họ được trên 50 triệu Mỹ kim.
Vườn nho phát triển rất mau, nay được trên 20.000 mẫu vừa nho, vừa lê, táo.
Rau cũng vậy, năm 1949 sản xuất được 64.000 tấn, năm 1962- 63 được 277.000 tấn và cũng đã xuất cảng được.
Cây kỹ nghệ như bông, củ cải đỏ (để làm đường), đậu phụng trồng mỗi ngày một nhiều: 16.000 hécta trồng bông gần đủ dùng trong xứ, hy vọng sau này có thể xuất cảng được; 5.500 héc-ta củ cải đỏ (cung cấp được một phần ba nhu cầu trong xứ) 4.200 héc-ta đậu phụng; 4.300 héc-ta thuốc hút.
Sức sản xuất sữa bò tăng rất mau từ 76 triệu lít năm 1948, lên 258 triệu lít năm 1958. Trung bình mỗi con bò cái vắt được 4.200 lít mỗi năm, khoảng 12 lít mỗi ngày, bỏ xa bò của Pháp.
Họ có 65.000 héc-ta trồng cỏ để nuôi một bầy súc vật ăn thịt gồm 60.000 con.
Số gà vịt tăng mạnh nhất. Năm 1948 có 1.425.000 con gà mái đẻ trứng, năm 1962 có 7.000.000 con. Số trứng tăng từ 230 triệu lên 1.250 triệu. Họ nghĩ cách xuất cảng trứng qua châu Âu vì không tiêu thụ hết.
Lúa năm 1947 gặt được 52.000 tấn, năm 1962 được 160.000 tấn vẫn chưa đủ dùng, phải nhập cảng thêm. Họ thiếu nước nên muốn dùng nước để trồng các loại cây có lợi hơn lúa.
Nghề đánh cá - Năm 1948 đánh được 2.700 tấn, năm 1962 được 16.000 tấn. Họ đã hạn chế nuôi cá để dùng nước vào việc khác.
Họ rất quý cây cối, không bỏ phí một tấc đất, chỗ nào trồng cây được là họ trồng, người dân nào cũng đua nhau trồng cây. Cây ngăn nước mưa khỏi xối đất mà mất phân, cây làm cho không khí mát mẻ, cây giữ nước mưa, cây là cứu tinh của họ. Tới cuối năm 1962 họ đã trồng được 60 triệu cây trung bình mỗi người dân trồng 30 cây; như vậy vẫn chưa đủ, họ định trồng lại cây trên 50.000 héc-ta nữa.
Trong khu vực của dân Ả Rập, sự tiến bộ tuy chậm hơn nhưng cũng khả quan.
***
Ngành canh nông năm 1962 chỉ đem lại cho Israel 10% lợi tức quốc gia (921 triệu bảng Israel (mỗi bảng Israel bằng 2 quan mới của Pháp 1NF ( quan mới= 100frs quan cũ), nhưng giữ một địa vị quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế của họ. Trước hết nó làm cho mức sống của dân tăng lên do đó sức khoẻ cũng tăng lên. Họ ăn uống sung sướng, đủ chất bổ như người Âu.
Năm 1962-63, trung bình mỗi người dân được ăn 34 kí-lô thịt (mỗi ngày non 100 gam), 340 quả trứng (mỗi ngày gần được một quả).
Nhiều món họ sản xuất dư, như rau, sữa, trứng, họ phải xuất cảng bớt. Nhà cầm quyền phải nghiên cứu một kế hoạch hợp lý hoá sự sản xuất: hãm bớt việc nuôi gả lại mà khuếch trương sự trồng trọt vài loại trái cây, rau, có lợi cho sự xuất cảng hơn. Họ hy vọng có thể nhờ nông lâm súc mà thu hoạch được 100 triệu Mỹ kim xuất cảng mỗi năm.
***
Tuy nhiên hiện nay họ đương gặp vài điều khó khăn.
Một số Do Thái hồi hương không quen công việc canh nông ở xứ nóng muốn bỏ nghề vì cực khổ quá, chịu không nổi. Họ trách chính phủ: “Người ta quảng cáo quá. Người ta có bảo trước chúng tôi là đời sống cực nhọc đấy, nhưng không cho biết cực nhọc ra sao, bây giờ chúng tôi mới thấy phải sống như tụi mọi”.
Những người đó bỏ đồng ruộng mà ra tỉnh làm thợ, lái xe. Là vì làm ruộng ở Israel phải có tinh thần chiến đấu, hy sinh. Mà không thể bắt cả mấy trăm ngàn người Do Thái từ mọi xứ về Israel đều có tinh thần cao của những người Do Thái tiên khu trong các Kibboutz được.
Ngay trong các Kibboutz, những quy tắc căn bản hồi đầu cũng không luôn luôn luôn được tôn trọng nữa vì lẽ tinh thần chiến đấu không thể giữ hoài được khi đời sống đã vững hơn, khả quan hơn.
Tâm trạng bất mãn đó không phải là tâm trạng chung và hiện nay chính quyền Israel vẫn có thể mừng rằng ngành canh nông của họ tiến vượt bực, đáng làm gương cho các quốc gia Á, Phi kém phát triển.




----------------------------------------------------------------------------------------------
TRITRI.org - SÁNG TẠO ĐỔI MỚI
Thích ứng thay đổi * Chủ động sáng tạo * Dẫn dắt thành công
Các BÀI VIẾT: link
Các HÌNH ẢNH: link
Các BÀI GIẢNG: link
Sáng tạo đổi mới tái xuất giang hồ: link

Chìa khóa vàng dẫn dắt thành công trong sáng tạo đổi mới: link

{ 0 nhận xét... read them below or add one }

Đăng nhận xét